Đánh giá xếp hạng đại học trên nhân loại là việc gian khổ, có phổ thông bất cập và gây phổ quát tranh biện. Ở đây tôi xin chỉ ra vài nhân tố chính đã được đưa ra.
Trước nhất là gian nan, tốn chi phí cao trong việc thu thập số liệu sao cho hoàn toản, đúng đắn. Một hướng giải quyết khá hấp dẫn là yêu cầu các trường được bình chọn tự nộp số liệu. Các công ty đánh giá chỉ rà soát xem số liệu đó có toàn vẹn và trung thực không, chấm điểm minh bạch cho số liệu đó, thì đỡ tốn công hơn đa dạng so với phải tự đi mua. Trừ điểm (hoặc không cho tham gia danh sách bình chọn) những trường nào đưa thiếu số liệu, hay bị nhận thấy không chân thực.
Thứ hai là khó khăn trong việc so sánh giữa các cấp, vì đặc trưng của chúng. Chả hạn trong ngành khoa học cơ bản thì nghiên cứu cốt yếu đăng báo chí; lĩnh vực công nghệ thông tin thì phân tích lại đăng ở kỷ yếu hội thảo kỹ thuật; còn ngành xã hội thì công trình khoa học sáng giá lại chủ quản viết dưới dạng sách.
Chỉ số năng suất tìm hiểu kỹ thuật mà chỉ dựa trên số bài báo sẽ bị thiên lệch về khoa học căn bản, các cấp khác bị coi nhẹ đi. Việc đưa ra một chỉ số đánh giá kết quả phân tích kỹ thuật sao cho cân bằng giữa các cấp là rất không dễ dàng.
Các chỉ số dựa trên giá trị tuyệt đối có nguy cơ “lấy giết thịt đè người”. Chả hạn ba trường A, B, C có số nhà cửa công nghệ một năm tương ứng là 2.000, 1.500, 1.000, thì trường nào tốt hơn về phân tích khoa học (trợ thời coi là công trình có trị giá tương đương)? Ví như chỉ tính theo giá trị tuyệt đối thì A là tốt nhất. Nhưng nếu đánh giá theo cả quy mô của mỗi trường, chả hạn A có 4.000 giảng viên còn C có 1.000 giảng viên, thì sẽ thấy là số công trình khoa học trên đầu giảng sư của A chỉ là 0,5 còn của C là 1. Như vậy C phải tốt hơn A.
Trong “danh sách Thượng Hải” có những chỉ số dựa trên trị giá tuyệt đối như vậy, dẫn đến trường có diện tích rất to nhưng chất lượng vừa phải lại được xếp hạng trên trường có chất lượng rất cao nhưng có số người hạn nhạo báng. Nhân tố này dẫn tới một thiên hướng mang tính rất chế độ ở một vài nơi như Pháp là sáp nhập các trường với nhau cho phình to ra để được xếp hạng cao hơn, kể cả khi việc đó chẳng hề khiến cho tăng chất lượng của trường mà chỉ tạo thêm một tầng quan liêu.
Hình như đó, còn có sự tùy một thể trong việc tính hệ số cho các mục tiêu. Giả sử xếp hạng dựa trên 3 điểm không giống nhau tổng phù hợp lại theo ba tiêu chí a, b, c. Trường A có điểm a= 3, b=4, c= 5; trường B có a=4, b=5, c=3; trường C có a=5, c=3, b=4, thử hỏi trường nào xếp hạng cao hơn trường nào? Giả dụ doanh nghiệp bình chọn cho mục tiêu a 40% số điểm, b 30% và c 30% thì C xếp hạng cao nhất trong ba trường A, B, C; còn nếu như cho a 30% số điểm, b 35% số điểm và C 35% số điểm thì C lại thành xếp hạng bét trong ba trường A, B, C.
Như vậy, bảng xếp hạng rất phụ thuộc vào việc tổ chức bình chọn phân hệ số bao lăm cho mỗi chỉ tiêu. Và cuộc bàn cãi “chỉ tiêu nào cần cho hệ số bao lăm mới đúng” sẽ không bao giờ có người thắng cuộc. Bởi vậy các bảng xếp hạng khác biệt sẽ luôn cho các bảng quy trình không giống nhau. Chưa kể đến có những chỉ tiêu được tính trong bảng xếp hạng này lại hoàn toàn không được tính (hệ số = 0) trong bảng khác.
GS Nguyễn Tiến Dũng. |
Khi một bảng xếp hạng nặng về các mục tiêu có thuộc tính dĩ vãng, ví dụ số cựu học sinh được giải Nobel (thường là phải học tại trường trong khoảng hàng chục năm trước đó) thì hữu dụng cho các trường có dĩ vãng huy hoàng, nhưng đang xuống dốc. Ngoài ra các trường đang mạnh lên có yếu tố kiện tốt hơn lại bị thiệt thòi về thứ hạng. Sự lệch lạc này không hữu dụng cho những người muốn chọn nơi tốt nhất để học và để làm cho việc.
Một số mục tiêu về “phỏng vấn uy tín” vừa mang tính quá khứ vừa khó xác định chừng mực khách quan và minh bạch. Phỏng vấn khách hàng nào, tại sao lại chỉ chọn những người đó, và những người tư vấn có thây mặt thật sự cho quan niệm chung của toàn bộ cộng đồng hay không?
Một thực trạng nữa là các trường sẽ chạy đua theo xếp hạng, chỉ chú trọng các tiêu chí có trong xếp hạng mà bỏ rơi phần lớn yếu tố khác tạo nên một đại học đàng hoàng. Đây là nhân tố xảy ra trên thực tế và là một trong những “tác dụng phụ” đáng lo lắng nhất của các bảng xếp hạng.
Một số nhân tố trên đủ để cho thấy việc xếp hạng là một việc gian nan, gây đa dạng tranh cãi, và không bao giờ có thể thống nhất được.
Chỉ 5% đại học lọt vào bảng xếp hạng đại học trái đất Hiện có phần đông công ty công và tư nhập cuộc vào việc bình chọn xếp hạng đại học. là The Academic Ranking of World Universities (ARWU) do Đại học Giao thông Thượng Hải (Shanghai Jiao Tong University) thực hiện (còn được gọi là "danh sách Thượng Hải"), Times Higher Education World University Rankings của tạp chí Times Higher Education (THE) ở London, và QS World University Rankings do Quacquarelli Symonds thi hành từ năm 2004 ở Anh. Quả đât có hơn 16.000 trường đại học, nhưng chỉ khoảng 5% trong số đó được coi là có "phong cách quốc tế" và lọt tham gia danh sách của ba bảng xếp hạng trên. Danh sách xếp hạng ở mức "địa phương" thì có thêm rộng rãi trường. |
GS Nguyễn Tiến Dũng
Đại học Toulouse, Pháp
Xem thêm: tin tong hop
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét